Siêu khuyến mãi giảm giá sốc

Tin nổi bật

Cấu trúc của da người - Phần 1: Thượng bì

Hà Ngọc Cường | 16/02/2023

Người xưa thường nói “cái răng cái tóc là góc con người”, hoặc “nhất dáng nhì da thứ ba đường nét”, chúng tôi muốn nhắc đến những câu nói này để nói lên một điều: da và tóc là rất quan trọng trong vấn đề góp phần tạo nên hình thể của con người và tạo nên nét đẹp của mỗi một con người. Nhu cầu làm đẹp hiện nay không chỉ phụ nữ quan tâm, mà phái mày râu cũng có nhu cầu đó. Muốn làm cho da, tóc đẹp, trước hết chúng ta nên tìm hiểu cấu tạo và chức năng của da, tóc là như thế nào? Từ đó mới có cách làm cho da tóc... được chăm sóc và bảo vệ tốt hơn.

1. Đại cương

Da là một cơ quan tương đối lớn, chiếm khoảng 16% tổng trọng lượng cơ thể, nằm ở mặt ngoài, tiếp xúc trực tiếp với môi trường. Da là bộ phận vô cùng quan trọng, nó giống như một chiếc áo tự nhiên bảo vệ cơ thể chống lại các tác nhân có hại bên ngoài và có các chức năng bài tiết, điều hòa nhiệt độ... Tổng diện tích da của người trưởng thành là 1,2 đến 2m2

Da người có 3 lớp: thượng bì, trung bì và hạ bì. Thượng bì có nguồn gốc phôi thai từ lá thai ngoài, bản chất là biểu mô. Trung bì có nguồn gốc từ lá thai giữa, bản chất là mô liên kết, ngoài ra còn có các phần phụ của da như lông, tóc, móng, tuyến bã nhờn...

2. Mô học da thường

2.1. Thượng bì (Epidermis)

Thượng bì là lớp ngoài cùng của da, gồm chủ yếu là các tế bào biểu mô sừng (Keratinocyte) chiếm tới 95%, ngoài ra còn tế bào hắc tố, tế bào Merkel và tế bào Langerhans.

Thượng bì có tác dụng như một hàng rào bảo vệ da, nó gồm có 4 lớp chính: tính từ ngoài vào trong gồm có là: lớp tế bào sừng, lớp tế bào hạt, lớp tế bào gai, lớp tế bào đáy (còn gọi là lớp tế bào nằm). Riêng ở lòng bàn tay và bàn chân có thêm 1 lớp sáng, nằm xen kẽ giữa lớp sừng và lớp hạt (tức là có 5 lớp).

Thượng bì dày chừng 0,4 – 1,5 mm tùy theo từng vị trí trên cơ thể (dày nhất là lòng bàn tay, bàn chân, mỏng nhất là vùng sinh dục).

Thượng bì có các lớp sau :

2.1.1. Lớp tế bào đáy (Stratum basale)

Lớp này còn gọi là lớp tế bào cơ bản (Basal cells), đó là lớp sâu nhất của thượng bì, gồm những tế bào hình trụ, nhân có trục dài, thẳng đứng. Nguyên sinh chất ưa kiềm chứa các hạt sắc tố Melanin. Các tế bào đáy có khả năng sinh sản rất mạnh để sản xuất ra các tế bào mới thay thế các tế bào cũ đã biệt hóa.

Trong bào tương của lớp tế bào đáy xuất hiện các sợi Keratin rất mảnh tập trung từ xung quanh nhân chạy ra gắn gắn với các cầu nối gian bào (desmosome) và nửa cầu nối gian bào (hemidesmosome) để giúp các tế bào liên kết với nhau một cách vững chắc.

Thời gian để cho một tế bào đáy phân chia, biệt hóa và di chuyển tới lớp sừng khoảng 14 ngày. Thời gian ở lớp sừng đến khi thành vảy da và bong ra khoảng 14 ngày nữa. Như vậy khả năng tái tạo của lớp thượng bì khoảng 4 tuần.

Trong tế bào đáy có cấu trúc nửa cầu nối gian bào gian bào (hemidesmosome),, đó là một cấu trúc của khung tế bào đáy để nối lớp đáy với màng đáy. Hemidesmosome là phần quan trọng của lớp thượng bì và có rất nhiều bệnh da liên quan đến bộ phận này, đặc biệt là nhóm bệnh da bọng nước tự miễn dưới thượng bì như bệnh Bullous Pemphigoide, Durhing –Brocq.

Rải rác, xen kẽ giữa những tế bào đáy còn có tế bào hắc tố (Melanocyte) có nguồn gốc từ các mào thần kinh, tập trung nhiều nhất ở mặt và ở những vùng tiếp xúc với ánh sáng. Ngoài ra lớp đáy còn có tế bào Meckel.

Lớp tế bào đáy có cặp phân tử Keratin là K5 (trọng lượng phân tử là 58 kDa) và K14 (trọng lượng phân tử là 50 kDa).

2.1.2. Lớp tế bào gai (Stratum spinosum)

Lớp tế bào gai còn gọi là lớp nhầy Malpighi, là những tế bào hình đa diện, nằm ở trên lớp đáy, được xếp thành từ 6 đến 20 hàng, càng về phía trên các tế bào này càng dẹt dần, đây là những tế bào trưởng thành của biểu bì.

Lớp tế bào gai được coi là một lớp của quá trình biệt hóa của tế bào sừng. Hình dáng, cấu trúc và đặc tính của tế bào gai có liên quan đến các vị trí trong cơ thể. Dưới kính hiển vi quang học ở độ phóng đại lớn, các tế bào gai nằm sát nhau, liên kết với nhau bằng hình thức “khớp mộng” cho hình ảnh các “gai”. Dưới kính hiển vi điện tử các tế bào này không nối hẳn với nhau mà chỉ tiếp xúc bằng các cầu nối gian bào, còn gọi là Desmosome.

Desmosome là cấu trúc bề mặt của tế bào và phụ thuộc Calci do bó sợi Keratin từ trong tế bào chạy ra liên kết với phần xuyên màng và gắn với tế bào sừng kề bên. Đây là kết cấu rất vững chắc với các tác nhân cơ học nên chức năng của Desmosome là ổn định tế bào, hạn chế tác động từ các sang chấn. Trong một số bệnh lý, điển hình là nhóm bệnh da bọng nước tự miễn trong thượng bì như bệnh Pemphigus, các cầu nối gian bào này bị đứt gây nên các bọng nước mềm, nhẽo, vết trợt trên da và niêm mạc.

Nhân của tế bào gai to và rất hoạt động, trong bào tương của tế bào gai và cả lớp hạt có chứa bào quan mới, gọi là tiểu thể Lamella (lamellar granuler) hay thể Odland, kích thước 100 – 500 nm, đường kính 0,2 -0,3 nm, có dạng lá gấp lại hoặc dạng đĩa. Các tiểu thể này chứa hỗn hợp của Lipid như Phospholipid, Sphinggolipid và Cholesterol. Khi lên đến các tế bào hạt trên cùng, các tiểu thể này sẽ hòa màng và giải phóng các lá Lipid vào khoảng gian bào tạo thành lớp Lipid gian bào, một hàng rào chắn nước rất có hiệu quả, giúp da giữ nước, tránh khô da,tham gia vào quá trình gắn kết và bong vảy của lớp sừng.

Trong tế bào gai vẫn tồn tại các lá sừng chạy từ nhân tế bào ra gắn với các cầu nối gian bào và vẫn có các Keratin K5, K14, ngoài ra còn xuất hiện thêm K1 (56,5 kDa) và K10 (67 kDa), đó là các Keratin đặc thù cho sự biệt hóa cho thấy quá trình sừng hóa của các tế bào gai đang diễn ra mạnh mẽ.

Các tế bào gai cũng có khả năng sinh sản bằng gián phân. Hoạt động gián phân của lớp đáy và lớp gai đều mạnh mẽ và liên tục.

Trong lớp tế bào gai còn có tế bào tua di chuyển hay còn gọi là tế bào Langerhans.

2.1.3. Lớp tế bào hạt (Stratum granulosum)

Lớp này là những tế bào dẹt nằm ở trên lớp gai, gồm có 3-4 hàng tế bào, nhân sáng. Tế bào của lớp này thể hiện hình ảnh sự thoái triển của tế bào biểu mô.

Bên trong bào tương của các tế bào hạt có nhiều hạt Keratohyalin mà thành phần chủ yếu là tiền chất Filaggrin và các lá Keratin trung gian. Sự xuất hiện của các hạt này chứng tỏ quá trình sừng hóa đang diễn ra. Các phân tử Keratin K1 biến đổi thành K2, K10 thành K11. Trong quá trình chuyển dần từ tế bào hạt thành tế bào sừng, các tiền chất Filaggrin sẽ chuyển thành Filaggrin và là thành phần chủ yếu của các yếu tố dưỡng ẩm tự nhiên (Natural moiturizing Factor) và vỏ tế bào sừng.

2.1.4. Lớp tế bào sáng (Stratum lucidum)

Lớp này chỉ có ở lòng bàn tay, bàn chân và nằm ở trên lớp hạt bao gồm những tế bào trong, thuần nhất, không có nhân, dẹt, sắp xếp thành 2 hoặc 3 hàng, các tế bào này chứa chất Eleidin, hình thành do sự hóa lỏng các hạt sừng trong chứa nhiều nhóm Disulfid.

2.1.5. Lớp tế bào sừng (Stratum corneum)

Lớp tế bào sừng là lớp ngoài cùng của da, có bề dày khoảng 0,1 mm (100 micromet), dày nhất là ở lòng bàn tay, bàn chân từ 0,8 đến 1,4 mm. mỏng nhất là ở mi mắt khoảng 50 micromet.

Đây là những tế bào có kích thước lớn nhất ở lớp thượng bì. Thành phần chủ yếu là chất sừng (keratin). Ở những lớp ngoài cùng, các tế bào sừng trở nên dẹt hoàn toàn, màng bào tương dầy, nhân biến mất, trong bào tương chỉ còn toàn những sợi sừng. Mỗi tế bào biến thành một lá sừng mỏng, chồng chất lên nhau như một bức tường gạch, những tế bào sừng là những viên gạch và chất gian bào sừng là xi măng gắn các tế bào sừng lại với nhau thành một khối vững chắc để chống lại các tác động từ bên ngoài. Do hiện tượng bong da sinh lý, trung bình mỗi ngày có một lớp sừng bong ra tạo nên tạo nên những vảy nhỏ như vảy phấn, quyện với mồ hôi và chất bã tạo thành ghét.

Người ta thấy 80-90% chất Keratin trong tế bào sừng là K1/K10.

Quá trình sừng hóa diễn ra liên tục giúp da luôn đổi mới. Quá trình này chịu sự ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài môi trường và bên trong cơ thể (như gen, yếu tố toàn thân).

Thượng bì không có mạch máu và được nuôi dưỡng bởi dịch gian bào, các sợi thần kinh chỉ phân nhánh đến lớp đáy của da.

2.1.6. Các tế bào thượng bì có tua (Dendric cells)

Thượng bì chứa 2 loại tế bào có giả túc (có tua) là tế bào sắc tố và tế bào Langerhans.

* Tế bào sắc tố (Melatocyte): là tế bào có tua cung cấp sắc tố cho các tế bào sừng để tạo nên màu da. Tế bào sắc tố có nguồn gốc từ mào thần kinh, trong bào tương có các sợi Vimentin, thường khu trú dọc lớp đáy của thượng bì. Tỷ lệ giữa tế bào sắc tố và tế bào đáy thay đổi từ khoảng 1/4 ở mặt đến 1/10 ở chi, khi nhuộm bằng Hematoxylin eosin (HE), tế bào sáng màu, không có Tonofilament và Desmosome. Một tế bào sắc tố và một nhóm tế bào sừng liền kề được cung cấp sắc tố được gọi là “ một đơn vị sắc tố thượng bì”.

Tế bào sắc tố là tế bào duy nhất có khả năng sản xuất ra các hạt Melanosome. Các Melanosome được vận chuyển theo các giả túc của tế bào sắc tố đến một nhóm tế bào sừng (đơn vị sắc tố của thượng bì).

Các hạt Melanosome sẽ được biến đổi qua 4 giai đoạn :

+ Giai đoạn 1 chỉ chứa Tyrosinase.

+ Giai đoạn 2: chứa nhiều Tyrosiase và một vài Melanin.

+ Giai đoạn 3: chứa phần lớn Melanin với một vài Tyrosiase.

+ Giai đoạn 4: chỉ chứa Melanin.

Sắc tố khác nhau từ màu vàng đến màu nâu, hoặc đen, giải thích sự khác nhau về màu da trong một chủng tộc này với các chủng tộc khác. Sự khác nhau về màu da giữa các chủng tộc không phụ thuộc vào số lượng tế bào sắc tố mà phụ thuộc vào bản chất của Melanin và kích thước hạt Melanosome.

Sắc tố (Melanin) được tạo thành do một chuỗi các phản ứng từ chất nền Tyrosin qua con đường DOPA và Dopaquinon dưới sự kiểm soát của nhiều loại men.

Chức năng của sắc tố là chống lại tác hại của tia cực tím (Ultraviolet = viết tắt UV), che trở cho sự gián phân của các tế bào đáy ở thượng bì khỏi sự ảnh hưởng của của tia cực tím, kiểm soát sự tổng hợp vitamin D3 và điều hòa thân nhiệt tại chỗ. Số lượng tế bào sắc tố tăng khi phản ứng với sự kích thích của tia cực tím.

Ở da người có 2 loại sắc tố:

- Eumelanin: có màu nâu hoặc đen

- Phaeomelanin: có màu đỏ.

* Tế bào Langerhans

Đây là những tế bào trình diện kháng nguyên, có nguồn gốc từ tủy xương, chiếm khoảng 5 % tế bào thượng bì, nằm ở khắp thượng bì tạo thành hàng rào lưới, nhưng tập trung ở nhiều lớp tế bào gai phía trên. Mật độ thay đổi tùy theo vị trí trên cơ thể, nhiều nhất ở mặt với 600- 1000 tế bào/mm2.

 Tế bào Langerhans điển hình có nhân chia múi, bào tương sáng, không có Desmosomes và Tonofilaments, có các giả túc đi vào giữa các tế bào biểu mô sừng lên tận lớp hạt và xuống tận màng đáy, trong tế bào chứa bào quan đặc biệt giống như hình vợt Tennis gọi là hạt Birbeck.

Tế bào Langerhans có khả năng miễn dịch nhờ vai trò trình diện kháng nguyên và tăng số lượng trong phản ứng tiếp xúc. Đây chính là tiền đồn của hệ thống miễn dịch tế bào của cơ thể.

* Tế bào Merkel

Tế bào Merkel được mô tả lần đầu năm 1875, có liên quan chặt chẽ với các sợi tận cùng của thần kinh da và dường như có vai trò cảm giác.

Tế bào nằm rải rác ở lớp đáy và chiếm khoảng 0,2- 5%  số tế bào thượng bì, có hình bầu dục dài khoảng 15 micromet, nhân lớn 2 múi, bào tương sáng, ít tổ chức bên trong, nằm song song với màng đáy.

Tế bào Merkel phân bố không đồng đều ở các vùng khác nhau của cơ thể. Ở vùng da nhẵn có khoảng 50 tế bào/mm2, tập trung ở gần các đầu mút của dây thần kinh cảm giác không có Myelin, tạo thành phức hợp tế bào Merkel – thần kinh (Merkel cellneurite complex). Ở những vùng da hở tiếp xúc với ánh nắng số lượng tế bào Merkel có thể tăng gấp đôi so với vùng da kín của cơ thể... Ở những vùng da có lông, tế bào Merkel tập trung ở mào thượng bì (rete ridges) và vỏ ngoài nang lông (outer root sheath of the hair follicle) nơi cơ dựng lông bám vào.

Chức năng của tế bào Merkel trong nang lông không rõ ràng, có thể liên quan đến chu kỳ tăng trưởng (anagen) của lông.

(còn nữa)

Thảo luận về chủ đề này
Danh mục

Giỏ hàng

zalo